Nhận thức về một người của một người, mà các nhà tâm lý học gọi là nhận thức xã hội, được xác định bởi nhiều yếu tố, và không ít trong số đó là nhiều định kiến khác nhau, bao gồm cả định kiến quốc gia.
Việc một người thuộc về quốc gia này hay quốc gia khác buộc người ta phải gắn những đặc điểm nhất định vào nó. Ví dụ, cư dân của các quốc gia Scandinavia thường được miêu tả là điềm tĩnh một cách thái quá, còn người miền Nam - đam mê và nóng tính. Không thiếu những định kiến về người Nga. Một số trong số đó thậm chí còn được phản ánh trong câu tục ngữ: "Nước Nga dùng lâu, nhưng đi nhanh".
Điều này không có nghĩa là những định kiến này là đúng 100%, nhưng có một phần nguyên lý trong chúng. Ví dụ, một người gốc Nga có thể nhầm một cuộc trò chuyện thân thiện bình thường giữa hai người Tây Ban Nha hoặc Ả Rập thành một cuộc cãi vã. Thói quen của nhiều học sinh Nga là ngồi ôn lại một học kỳ rồi học hết tài liệu vào những ngày cuối cùng trước kỳ thi cũng được các giáo viên biết rõ.
Sự xuất hiện của những nét tính cách dân tộc là đương nhiên. Mỗi quốc gia đã sống qua nhiều thế kỷ trong những điều kiện tự nhiên nhất định đã hình thành nên cách sống, truyền thống và tính cách của quốc gia đó.
Bắc và Nam
Một khu vực cụ thể nằm càng xa về phía bắc, điều kiện sống của một người càng khắc nghiệt, càng khó để tồn tại một mình. Một người nhiệt tình, nóng nảy và tính tình không kiềm chế sẽ có nhiều cơ hội gây gổ với người thân và bị trục xuất khỏi cộng đồng bộ lạc hơn một người điềm tĩnh và hợp lý.
Trong điều kiện khắc nghiệt của vùng đất phía bắc (ví dụ, trên bán đảo Scandinavi), những người lưu vong như vậy phải chịu cái chết, những người sống sót bình tĩnh hơn, những người không phá vỡ mối quan hệ của tổ tiên họ. Trong khí hậu phía Nam, nơi không có sự "chọn lọc" như vậy, những người có tính khí thất thường có thể chiếm vị trí thống trị do hoạt động gia tăng của họ. Điều này giải thích cho tính khí của người miền Nam và sự điềm đạm của người miền Bắc.
Miền núi và đồng bằng
Trong hầu hết các nền văn minh, các thủ đô đều nằm trên đồng bằng, không phải trên núi. Việc đi lại trên đồng bằng dễ dàng hơn, vận chuyển hàng hóa, do đó ở đồng bằng đã phát triển thương mại. Sự phát triển của nền kinh tế “kéo theo nó” những thay đổi về tổ chức xã hội, kéo theo sự xuất hiện của các cơ cấu nhà nước. Các khu vực miền núi ít bị ảnh hưởng bởi các quá trình này. Đó là lý do tại sao các truyền thống của bộ lạc được bảo tồn lâu hơn giữa các dân tộc sống ở vùng cao nguyên (Caucasus ở Nga, phía bắc Scotland ở Vương quốc Anh).
Đặc điểm của nông nghiệp
Các dân tộc nông nghiệp vốn thuộc về người Slav cổ đại, đã xây dựng cuộc sống của họ phù hợp với công việc đồng áng. Nga đang ở trong khu vực canh tác rủi ro. Thời vụ canh tác ngắn buộc mọi người phải nỗ lực hết mình trong một khung thời gian eo hẹp, kéo theo đó là một thời gian dài không hoạt động.
Tất nhiên, vào mùa đông, người ta cũng phải làm việc - trông coi gia súc, chặt gỗ, kéo sợi - nhưng tất cả những điều này không thể so sánh với sức lực khổng lồ mà mùa vụ nông nghiệp đòi hỏi từ người nông dân, trong đó rất nhiều làm xong. Đây là cách hình thành thói quen, đặc trưng của người Nga, không hoạt động kéo dài xen kẽ với thời gian tương đối ngắn làm việc vất vả, được thể hiện ngay cả ở những cư dân thành phố hiện đại, những người chưa bao giờ làm nông nghiệp.