Đồng Dư Là Gì

Mục lục:

Đồng Dư Là Gì
Đồng Dư Là Gì

Video: Đồng Dư Là Gì

Video: Đồng Dư Là Gì
Video: [Toán nâng cao lớp 8] - Đồng dư thức - thầy Nguyễn Hùng Cường 2024, Có thể
Anonim

Theo nghĩa chung nhất, đồng dư đề cập đến sự nhất quán của các yếu tố hoặc trường hợp khác nhau của một cái gì đó với nhau. Thuật ngữ này có một ý nghĩa đặc biệt trong tâm lý học.

Đồng dư là gì
Đồng dư là gì

Hướng dẫn

Bước 1

Trong tâm lý học, người ta thường gọi sự toàn vẹn, đầy đủ của nhân cách, sự hài hòa bên trong và không có xung đột bằng sự đồng dư. Đó là, đây là một trạng thái của một người trong đó những biểu hiện bên ngoài của anh ta tương ứng với trạng thái bên trong của anh ta. Ví dụ đơn giản nhất về sự đồng ý là người đó đang vui vẻ và cười chân thành. Ví dụ về hành vi ngỗ ngược, lừa dối, xu nịnh hoặc các tình huống mà một người có ý thức hoặc vô thức (như một biện pháp phòng vệ tâm lý) che giấu cảm xúc thật của mình (ví dụ: cười khi anh ta buồn) được xem xét.

Bước 2

Thuật ngữ "đồng dư" ban đầu được đưa vào tâm lý học bởi Karl Rogers. Trong lý thuyết về khái niệm bản thân của ông, sử dụng từ này, một số khái niệm đã được chỉ định: thứ nhất, sự tương ứng của “tôi”, “tôi lý tưởng” và trải nghiệm trong cuộc sống của cá nhân, và thứ hai, trạng thái của nhà trị liệu tâm lý, trong mà kinh nghiệm cá nhân, cảm xúc, thái độ và các thành phần khác của trải nghiệm nội bộ được nhận thức, sống và thể hiện một cách đầy đủ khi làm việc với khách hàng. Những thứ kia. trong lý thuyết của ông, sự đồng dư được sử dụng để mô tả khả năng một người chấp nhận mà không phán xét, nhận thức được cảm xúc, kinh nghiệm và vấn đề thực tế của mình, đồng thời có thể diễn đạt chúng bằng lời nói và hành động một cách đầy đủ.

Bước 3

Như vậy, ba mắt xích trong chuỗi được coi là: trải nghiệm - nhận thức - thể hiện. Sự không nhất quán có thể tự bộc lộ không chỉ khi một người che giấu cảm xúc của mình một cách có ý thức, mà còn khi anh ta thậm chí không nhận thức đầy đủ về chúng. Bạn có thể xem xét một tình huống mà một người đã dành thời gian buồn chán trong một bữa tiệc, nhưng, tuy nhiên, hãy cảm ơn những người chủ nhà vì một trò tiêu khiển thú vị. Đây là nơi mà lời nói và cảm xúc khác nhau. Bạn cũng có thể xem xét một tình huống khi một người đang tranh cãi với ai đó cảm thấy tức giận, điều này được thể hiện qua các phản ứng tự chủ của anh ta, nhưng đồng thời bản thân anh ta cũng chắc chắn rằng mình hoàn toàn bình tĩnh đưa ra các lập luận hợp lý. Đây là nơi mà các cảm giác và nhận thức của chúng khác nhau.

Bước 4

Trong tâm lý học xã hội, sự tương đồng được hiểu là sự đạt được sự tương ứng của các đánh giá do một người đưa ra cho một đối tượng nhất định và một người khác đánh giá đối tượng này theo một cách tương tự. Có thể dễ dàng xem xét tình huống này hơn với một ví dụ: một người hài lòng với một người quen nào đó, anh ta coi anh ta là người thông minh và tốt, nhưng đồng thời người quen này đột nhiên bắt đầu khen ngợi điều gì đó được coi là tiêu cực trong tâm trí của người đó, chẳng hạn., hoạt động của một số chính trị gia hoặc một luật mới. Một người quen nhìn nhận một người bạn và những đánh giá của anh ta một cách tích cực, nhưng tại một thời điểm cụ thể, các vị trí khác nhau. Trong trường hợp này, người đó phải đối mặt với một sự lựa chọn: thừa nhận rằng người quen không quá thông minh và tốt, xem xét lại vị trí của mình, bởi vì người quen là đúng, hoặc nhận ra rằng người quen đã sai trong một điều gì đó, và vị trí của bản thân người đó không đúng như vậy … Lựa chọn cuối cùng được gọi chính xác là sự đồng dư - cách tốt nhất để khôi phục sự hài hòa trong các đánh giá.

Bước 5

Ở chiều ngược lại, nguyên tắc này cũng có thể hoạt động: nếu một người khó chịu với bạn đột nhiên bắt đầu khen ngợi những gì bạn thích (ví dụ: tác phẩm của một nghệ sĩ hoặc nhà văn), anh ta sẽ không còn bị nhìn nhận tiêu cực như trước nữa. Những ví dụ này đã được Osgood và Tannenbaum, các nhà tâm lý học người Mỹ, mô tả trong lý thuyết đồng dư. Lý thuyết của họ xem xét ý tưởng rằng để khắc phục sự bất hòa về nhận thức xuất hiện trong những tình huống như vậy, một người sẽ cố gắng thay đổi đồng thời thái độ của mình đối với hai nguồn thông tin trái ngược nhau.

Đề xuất: