Họ được Sinh Ra Hay Trở Thành Người đồng Tính Luyến ái?

Mục lục:

Họ được Sinh Ra Hay Trở Thành Người đồng Tính Luyến ái?
Họ được Sinh Ra Hay Trở Thành Người đồng Tính Luyến ái?

Video: Họ được Sinh Ra Hay Trở Thành Người đồng Tính Luyến ái?

Video: Họ được Sinh Ra Hay Trở Thành Người đồng Tính Luyến ái?
Video: [Phim Tài Liệu] Nguồn Gốc Đồng Tính (VTV2) 2024, Có thể
Anonim

Những người tuân thủ các mối quan hệ đồng tính cho rằng họ được sinh ra theo cách đó và không thể tự giúp mình. Các nhà khoa học khác nhau về vấn đề này. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đồng ý một điều: không quá 5% tổng số người đồng tính và lưỡng tính thực sự. Bước vào một mối quan hệ đồng giới vì mục đích tò mò, để thăng tiến trong sự nghiệp, được gọi là đồi truỵ.

Họ được sinh ra hay trở thành người đồng tính luyến ái?
Họ được sinh ra hay trở thành người đồng tính luyến ái?

Hướng dẫn

Bước 1

Giả thuyết di truyền của đồng tính luyến ái

Để xác nhận giả thuyết này, các dữ kiện được trình bày về sự hiện diện của gen đồng tính trên nhiễm sắc thể Xq28 (tức là gen đồng tính không nằm trên nhiễm sắc thể giới tính). Nhiều nhà khoa học lại lập luận ngược lại - họ trở thành người đồng tính luyến ái trong quá trình sống dưới tác động của các yếu tố tâm lý xã hội. Để xác nhận lý thuyết này, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện với các cặp song sinh giống hệt nhau, có cùng bộ gen. Các nghiên cứu được thực hiện tại Hoa Kỳ bởi Giáo sư S. L. Hersherger (1997), tại Úc tại Đại học Queensland bởi một nhóm các nhà khoa học: J. Bailey, P. Dunne và N. G. Martin (2000) và cộng sự. Nếu đồng tính luyến ái được lập trình chặt chẽ, thì cả hai cặp song sinh sẽ tuân thủ xu hướng đồng tính luyến ái 100%. Tuy nhiên, sau khi tiến hành nghiên cứu, hóa ra cả hai anh em sinh đôi đều tuân theo xu hướng tình dục đồng giới chỉ chiếm 30 - 40% trường hợp. Các gen không lập trình hành vi của chúng ta. Bản thân một người có thể tuân theo hoặc chống lại các khuynh hướng di truyền, phát triển chúng (ngay cả với những tưởng tượng đồng tính luyến ái) hoặc ngăn chặn chúng.

Bước 2

Giả thuyết sinh lý về đồng tính luyến ái

Ở người, vùng dưới đồi chịu trách nhiệm về lĩnh vực tình dục. Chính xác hơn, theo Allen và Gorsky, chính vùng dưới đồi INAH3 chịu trách nhiệm về xu hướng tình dục. Nhà thần kinh học Simon LeVay (bản thân là người đồng tính) đã nghiên cứu vùng dưới đồi INAH3 vào năm 1991. Bằng cách đo những khu vực này ở những người dị tính và đồng tính luyến ái đã qua đời, ông nhận thấy rằng khu vực này ở những người đồng tính luyến ái nhỏ hơn ở những người dị tính luyến ái. Người ta kết luận rằng đàn ông dị tính có kích thước INAH3 lớn hơn 2-3 lần so với phụ nữ và đàn ông đồng tính luyến ái. Cấu trúc của não được đặt trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển phôi thai. Dựa trên điều này, LeVay kết luận rằng xu hướng tình dục đồng giới được lập trình nghiêm ngặt và một người không thể thay đổi chúng trong quá trình sống. Tuy nhiên, nhận định này bị bác bỏ bởi nhà khoa học Neil Whitehead (New Zealand, 2011), người đã nghiên cứu các cặp song sinh giống hệt nhau phát triển trong điều kiện trước khi sinh giống nhau. Theo ông, nếu một cặp song sinh là đồng giới thì khả năng sinh đôi thứ hai giống nhau là 11% đối với nam và 14% đối với nữ.

Bước 3

Giả thuyết tâm lý về đồng tính luyến ái

Trước đây, các nhà khoa học cho rằng những người đồng tính luyến ái lớn lên trong những gia đình không có cha hoặc có những người mẹ quyền lực và những người cha thụ động (I. Bieber, 1962), một người mẹ tốt bụng và chu đáo và một người cha "thua cuộc" (Veps, 1965), trong những gia đình nơi mà người mẹ không thể hiện quá nhiều tình yêu thương và sự quan tâm, còn những người cha thì tốt bụng và ân cần (Greenblatt, 1966). Sau đó, những lý thuyết này và các lý thuyết tâm lý khác đã không được xác nhận. Một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong một gia đình rối loạn chức năng không nhất thiết trở thành một người đồng tính. Một nghiên cứu năm 2000 tại Úc trên các cặp song sinh giống hệt nhau lớn lên trong cùng một gia đình cho thấy chỉ có 30 - 40% các cặp song sinh có cùng định hướng. Nếu đồng tính luyến ái là hệ quả của ảnh hưởng của cha mẹ đến con cái, thì trong 100% trường hợp, các cặp song sinh sẽ có cùng xu hướng tính dục. Rất có thể, yếu tố quyết định là những sự kiện độc nhất trong cuộc đời của một trong hai cặp song sinh (lạm dụng tình dục) và phản ứng của đứa trẻ trước những sự kiện tiêu cực này.

Đề xuất: