Các Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi ở Trẻ Nhỏ

Mục lục:

Các Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi ở Trẻ Nhỏ
Các Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi ở Trẻ Nhỏ

Video: Các Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi ở Trẻ Nhỏ

Video: Các Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi ở Trẻ Nhỏ
Video: Dấu hiệu viêm phổi nặng ở trẻ nhỏ 2024, Tháng mười một
Anonim

Viêm phổi hay viêm phổi là một căn bệnh âm ỉ ảnh hưởng đến hệ hô hấp. Nó có rất nhiều biến chứng, đặc biệt là khi còn nhỏ, khi hệ thống miễn dịch yếu nhất và không có khả năng tự vệ. Điều quan trọng là phải chẩn đoán bệnh càng sớm càng tốt và bắt đầu điều trị.

Bệnh viêm phổi rất nguy hiểm ngay từ khi còn nhỏ
Bệnh viêm phổi rất nguy hiểm ngay từ khi còn nhỏ

Đặc điểm của sự phát triển của bệnh ở thời thơ ấu

Việc chẩn đoán viêm phổi ở trẻ dưới 3 tuổi là khó nhất vì bệnh bắt đầu biểu hiện theo các triệu chứng tương tự như các bệnh khác và trẻ không thể mô tả được cảm xúc của mình. Ở độ tuổi này, đường thở của trẻ vẫn còn ngắn và khá hẹp với màng nhầy mỏng manh nên các cơ quan hô hấp rất dễ bị lây lan quá trình viêm nhiễm.

Trẻ sơ sinh có lồng ngực kém phát triển với vị trí ngang của xương sườn, khiến phổi không đủ thông khí. Ở phần dưới và lưng thường xảy ra tình trạng ứ đọng máu do trẻ nằm ngửa nhiều. Trong bối cảnh đó, trẻ em thường bị xẹp phổi - những phần không có không khí của mô phổi, nơi vi khuẩn thường phát triển không bị cản trở, chắc chắn gây viêm các cơ quan hô hấp.

Có một số yếu tố góp phần vào sự phát triển của bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ, bao gồm:

  • bệnh còi xương;
  • chế độ cho ăn sai;
  • vi phạm các quy tắc vệ sinh;
  • chuyển bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính;
  • các bệnh về hệ tiêu hóa, v.v.

Thông thường, viêm phổi xảy ra trong vài ngày sau khi khởi phát bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính. Trong bối cảnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính, có một sự hoạt hóa nhanh chóng của hệ vi khuẩn, góp phần phá hủy các hàng rào bảo vệ của đường hô hấp và phổi bởi vi rút. Nhiều loại vi khuẩn xâm nhập vào hệ thống hô hấp, ví dụ, liên cầu và phế cầu, dẫn đến sự phát triển của viêm phổi. Trong một số trường hợp, bệnh là hậu quả của sự suy yếu chung của hệ thống miễn dịch do ảnh hưởng của vi rút cúm.

Các triệu chứng của bệnh viêm phổi

Ở giai đoạn ban đầu của sự lây lan của nhiễm trùng, các triệu chứng sau đây được quan sát thấy:

  • xanh xao của da;
  • trạng thái bồn chồn;
  • suy giảm giấc ngủ;
  • nôn trớ thường xuyên;
  • giảm cảm giác thèm ăn và rối loạn phân.

Dần dần, nhiệt độ của trẻ tăng lên, thường lên đến 38 độ. Yếu tố quan trọng nhất của bệnh viêm phổi là sự xuất hiện nhanh chóng của các dấu hiệu nhiễm trùng đường hô hấp: thở mũi trở nên khó khăn, trẻ bắt đầu hắt hơi thường xuyên và ho khan hầu như không ngừng. Phù nề xuất hiện ở vùng tam giác mũi. Điều đáng chú ý là khi bị cúm hoặc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính thông thường, các dấu hiệu này xuất hiện muộn hơn nhiều và thường là trên nền của sự thoái lui của nhiễm trùng.

Trong tương lai, đứa trẻ có sự gia tăng nhịp thở và vi phạm nhịp điệu của mình. Hai cánh mũi nhợt nhạt, căng thẳng và bất động. Trong một số trường hợp, xuất hiện bọt chảy ra từ miệng, khó thở. Da của một đứa trẻ bị bệnh trở nên xám xịt. Khả năng vận động gần như biến mất hoàn toàn, và phần lớn thời gian trẻ dành cho giấc ngủ không yên.

Các loại viêm phổi

Trong y học, một số loại viêm phổi được phân biệt, tùy thuộc vào kích thước của trọng tâm viêm:

  1. Viêm phổi khu trú nhỏ. Nó thường xảy ra nhất ở trẻ sơ sinh và được đặc trưng bởi trọng tâm tương đối nhỏ. Bệnh chỉ thoáng qua, có triệu chứng không quá rõ rệt.
  2. Viêm phổi phân đoạn: một hoặc nhiều phân đoạn của hệ thống hô hấp bị viêm. Tất cả các dấu hiệu của bệnh đều được biểu hiện rõ ràng.
  3. Viêm phổi phổi: hầu như tất cả các mô phổi tiếp xúc với quá trình viêm. Bệnh khó chữa và có nhiều biến chứng.
  4. Viêm phổi kẽ. Đây là một loại bệnh khá hiếm gặp, khi ngoài mô phổi, vách ngăn từ mô liên kết gần phế quản cũng như các phế nang cũng bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, viêm phổi cấp tính và kéo dài được phân lập. Trong trường hợp đầu tiên, bệnh kéo dài đến sáu tuần, và trong trường hợp thứ hai, một thời gian dài hơn.

Chẩn đoán viêm phổi trong một cơ sở y tế

Bất kể bản chất của diễn biến bệnh, sự hiện diện hay không có dấu hiệu rõ ràng của bệnh viêm phổi, trẻ phải được đưa cho bác sĩ. Sự thành công của việc điều trị bệnh phần lớn phụ thuộc vào chẩn đoán y tế chính xác và kịp thời. Sẽ rất nguy hiểm nếu bạn tự ý đối xử với một đứa trẻ và hơn nữa, viết tắt bức tranh như một hiện tượng khó chịu hoặc vô hại thông thường, chẳng hạn như mọc răng. Không được tự ý sử dụng thuốc hạ sốt, trị ho, kháng khuẩn mà không có chỉ định của bác sĩ, nếu không sẽ không thể tránh khỏi tình trạng suy giảm chất lượng.

Bác sĩ nhi khoa có thể xác định trạng thái của hệ hô hấp và các hệ thống khác trên cơ thể của trẻ bằng kính nghe. Trong trường hợp này, vùng ngực bắt đầu được nghe từ tim. Trước tiên, đứa trẻ phải được trấn an, nếu không, tiếng khóc và căng thẳng thần kinh nói chung sẽ át đi nhịp đập của nhịp tim. Nếu trong quá trình chẩn đoán có những tiếng động rõ ràng, rối loạn nhịp tim, đây sẽ trở thành dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự hiện diện của bệnh.

Tiếp theo, bác sĩ tiến hành lắng nghe hệ hô hấp. Trẻ thường có nhịp thở quá êm nên có thể dùng cách cù nhẹ nhàng để tiếng thở rõ ràng hơn. Sau đó, hơi thở trở nên sâu hơn và dễ nhận thấy hơn trong một thời gian. Vào những thời điểm này, trẻ được phép khóc, điều này cũng có thể cho thấy đặc điểm nhịp thở của em bé.

Để chẩn đoán chính xác, bác sĩ tiến hành thăm dò và nghe lồng ngực, cũng như các phương pháp bổ sung như chụp X-quang, công thức máu toàn bộ. Một cuộc khảo sát chi tiết đối với các bậc phụ huynh được thực hiện để xác định các đặc điểm của bệnh nhiễm trùng, cũng như diễn biến của bệnh trong những ngày gần đây. Chỉ có một đánh giá toàn diện về cơ thể của một đứa trẻ bị bệnh mới có thể xác định chính xác nguyên nhân của tình trạng khó chịu, tính đến tất cả các phương pháp chính.

Nếu phát hiện viêm phổi khu trú nhỏ hoặc viêm phổi phân đoạn, nên điều trị tại nhà. Trong trường hợp viêm phổi nặng hơn và kéo dài, trẻ được đưa vào bệnh viện. Để điều trị, liệu pháp truyền và hô hấp được sử dụng dựa trên việc hít phải các hỗn hợp đặc biệt và uống các loại thuốc ho phù hợp. Trong các tình huống nguy cấp, thông gió nhân tạo được quy định. Đứa trẻ được dùng thuốc điều hòa miễn dịch. Thuốc kháng sinh chỉ được kê đơn trong những trường hợp nghiêm trọng, để không gây hại cho cơ thể em bé. May mắn thay, trong hầu hết các trường hợp, việc nhận biết bệnh kịp thời và điều trị kịp thời sẽ mang lại kết quả thành công.

Đề xuất: